Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Lãnh địa Đức Bà Đà Lạt

Vị trí: Lãnh địa Đức Bà nằm trên một ngọn đồi thoáng đẹp thuộc đường Ngô Quyền, cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 1km về hướng tây nam.
Đặc điểm: Lãnh địa mang một kiến trúc độc đáo theo phong cách Châu Âu thế kỷ 17 nhưng đã được thực hiện với vật liệu hoàn toàn của Việt Nam.

Domaine de Marie hay Lãnh địa Đức Bà được xây dựng từ năm 1930-1943 là tên gọi cụm kiến trúc gồm nhà nguyện và hai dãy nhà phía sau của tu viện nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn (Filles de la charité de saint Vincent de Paule). Ngôi nhà nguyện mới được quét lại màu sơn vàng với mái ngói đỏ nổi bật giữa bầu trời xanh và cây lá cũng rất xanh.Trong nhà thờ, đặc biệt có bức tượng Đức Mẹ đứng trên quả địa cầu được tạc theo hình mẫu người phụ nữ Việt Nam, do Janchère - kiến trúc sư người Pháp - thiết kế. Tượng cao 3m, nặng 1 tấn được làm năm 1943 và do bà Decoux dâng cúng. Phía sau nhà thờ có phần mộ phu nhân toàn quyền Decoux - bà Suzanne Humbert - ân nhân chính đã giúp xây dựng tu viện và có nguyện vọng được an nghỉ tại đây sau khi qua đời. Bà bị tai nạn giao thông tại đèo Prenn và mất ngày 06/01/1944. 

Trước năm 1975, nơi đây là tu viện chính với hơn 50 nữ tu đa số là người Việt trụ trì và làm công tác xã hội như: mở cô nhi viện, nhà trẻ. Các nữ tu cũng điều hành một trường huấn luyện thể thao và một trường tiểu học dạy chương trình Pháp. Hiện nay ngoài nhà nguyện và hai dãy tu viện, các cơ sở khác đã được sử dụng cho công ích. Tuy dòng chính đã chuyển về thành phố Hồ Chí Minh, nhưng để thực hiện tôn chỉ của dòng là phục vụ người nghèo, các nữ tu vẫn đang có mặt trong nhiều môi trường xã hội như: duy trì một trường mẫu giáo bán công thu nhận khoảng 200 cháu, chăm sóc trẻ em chậm phát triển, giúp đỡ các cô nhi, chữa trị bệnh cho người nghèo, phục vụ bệnh nhân phong tại trại phong Di Linh, mở những lớp dạy nghề miễn phí cho người lao động gồm các môn: đan, móc, thêu, may. Trong âm thầm, tất cả như muốn nói “chỉ với lòng nhân ái chia sẻ, con người mới thật sự là đồng loại của nhau...” và đó cũng chính là tinh thần “sống phúc âm giữa lòng dân tộc” như lời kêu gọi của hội đồng Giám mục Việt Nam gởi cộng đồng dân Thiên chúa năm 1980.
Từ sau năm 1975, tên Domaine được Việt hóa thành Đồi Mai Anh. Du khách đến đây nếu vào tham quan vườn hoa phía sau sẽ có dịp chiêm ngắm dàn Hài Tiên khá hiếm nở hoa thật đẹp.

Hồ Tuyền Lâm

Vị trí: Hồ Tuyền Lâm nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5km về hướng nam.
Đặc điểm: Hồ Tuyền Lâm rộng hơn 360ha, là địa điểm thích hợp cho các hoạt động thể thao, leo núi, chèo thuyền, câu cá.

Từ một thung lũng hoang vu ở độ cao hơn 1.000m so với mặt biển, hồ Tuyền Lâm đã được cải tạo thành điểm nghỉ mát lý tưởng của vùng cao. Hồ nằm cách Ðà Lạt 5km, gọn gàng giữa rừng thông mênh mông và dòng suối tía huyền thoại. Mùa khô ở vùng này kéo dài 6 tháng, không một hạt mưa, nhưng lòng hồ vẫn đầy ắp nước. Mặt hồ quanh năm xanh biếc, hiếm khi có sóng lớn. Rừng thông ba lá phủ kín những ngọn núi, quả đồi quanh đó, trải ngút ngàn tầm mắt. Tất cả cùng hòa quyện, vẽ nên bức tranh thiên nhiên yên tĩnh, thanh bình và thơ mộng lạ kỳ. Ai đến thăm Ðà Lạt cũng ghé Thiền viện Trúc Lâm để từ trên đỉnh núi Phượng Hoàng phóng tầm mắt về phía đông nam, chiêm ngưỡng thắng cảnh nổi tiếng được tạo bởi bàn tay con người này.

Có người dành cả ngày để du ngoạn trên hồ, tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ và sự tĩnh lặng quý báu. Trên bờ, khách có thể tìm hiểu những nét văn hóa của các dân tộc thiểu số nam Tây Nguyên với thịt nướng, cơm lam, rượu cần, đốt lửa trại; tham gia lễ hội cồng chiêng; ngắm nhìn những tác phẩm điêu hkhắc gỗ; thư giãn trên những ngôi nhà sàn, nhà dài lộng gió; bắn cung và thám hiểm rừng sâu.
Cùng với trò chơi hóa trang thành các chàng trai, cô gái miền sơn cước, du khách thường rất hứng thú với các hoạt động thể thao nhẹ nhàng như bóng đá một gôn, bóng chuyền trên cát, nhà dù, câu cá, cưỡi voi, cưỡi ngựa. Hiện có 5 con voi đã thuần dưỡng đang sống tại khu du lịch Tuyền Lâm và khu dã ngoại Ðá Tiên. Nhiều loại thú hoang mất dấu nhiều năm nay đã quay về như khỉ, sư tử mặt đỏ cùng nhiều động vật khác sống thành đàn.

Để tới Hồ Tuyền Lâm, ta theo quốc lộ 20, lên đèo Prenn, qua khỏi thác Ðatanla rẽ về phía trái chừng hơn 1km, băng qua những rừng thông ngút ngàn, du khách sẽ bắt gặp Hồ Tuyền lâm xanh biếc và đầy vẻ quyến rũ.

Với diện tích mặt nước khoảng 350ha, hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía.
Tên hồ không biết có tự bao giờ và do ai đặt, nhưng có lẽ cũng do xuất phát từ khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ ở đây mà tên gọi ấy đã sống mãi. Ðó là nơi gặp gỡ giữa sông, suối và cây rừng.

Buổi sớm, hồ nước phủ đầy sương trắng và yên tĩnh đến lạ kỳ, chỉ có tiếng chim quyện thành vòng, thành chuỗi để rồi tan xuống mặt hồ phẳng lặng. Buổi trưa bầu trời sáng láng, mặt hồ xanh biếc như biển khơi, lấp lánh ánh thủy tinh. Ðến chiều thì mềm ra trong ánh sáng mát lạnh và mặt hồ dần dần chuyển sang màu xanh thẫm. Nếu ngồi ở hồ Tuyền Lâm câu cá, làm thơ, hoặc đi dạo với người yêu vào những thời điểm như vậy, mới cảm nhận được hết vẻ kỳ ảo, thơ mộng và huyền diệu của cảnh sơn thủy hữu tình mà tạo hóa đã ban cho đất trời Ðà Lạt.

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014

Biệt điện Trần Lệ Xuân

Biệt điện Trần Lệ Xuân xa hoa lộng lẫy trước đây, nay là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước - Bộ Nội vụ) ở số 2 Yết Kiêu, Đà Lạt, Lâm Đồng được trùng tu, phục chế nguyên vẹn, mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng của sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa và du lịch.

Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, năm 1960, Mộc bản được chuyển từ Huế về Đà Lạt do chi nhánh Văn khố Đà Lạt quản lý. Mộc bản là những bản in chữ Hán khắc vào gỗ, kích thước trung bình 0,43m x 0,27m, dày từ 2 - 4 cm, mỗi tấm nặng chừng 300 - 400g.

Ngày nay, sau khi Mộc bản triều Nguyễn và các tài liệu lưu trữ được di chuyển từ Huế về Đà Lạt, Sài Gòn thì được sắp xếp theo trình tự gồm 9 vấn đề chính: Lịch sử, Địa lý, Chính trị - Xã hội, Quân sự, Pháp chế, Văn hóa - Giáo dục, Tôn giáo - Tư tưởng - Triết học, Ngôn ngữ văn tự, Văn thơ, Tồn nghi và được lưu giữ trong kho chuyên dụng bảo mật. Các cơ quan chức năng và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Mộc bản triều Nguyễn là di sản văn hóa thế giới.

Dưới chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, biệt điện Trần Lệ Xuân là biểu tượng của vẻ đẹp xa hoa, lộng lẫy cùng danh tiếng và quyền uy của chủ nhân. Đến nay, tại số 2 Yết Kiêu - Đà Lạt, khu biệt điện này đã được giữ gìn và phục chế lại gần như nguyên vẹn, tọa lạc trên đồi thông thơ mộng với diện tích khoảng 13.000m2 với ba ngôi biệt thự, một hồ bơi, một vườn hoa được thiết kế theo kiểu Nhật Bản, cùng nhiều hạng mục lý thú khác. Có thể nói đây là khu nghỉ dưỡng xa xỉ vào bậc nhất trong giai đoạn đầu chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1954 - 1963). Giới nghiên cứu đánh giá khu biệt điện này là một quần thể kiến trúc mang phong thái quý tộc với nhiều tên gọi hoa mỹ thể hiện quyền uy của chủ nhân nó.

Khu biệt điện gồm có 3 biệt thự là Hồng Ngọc, Bạch Ngọc và Lam Ngọc. Bạch Ngọc là nơi giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và tướng tá Sài Gòn. Lam Ngọc được sử dụng làm nơi nghỉ cuối tuần của gia đình bà “cố vấn”. Còn Hồng Ngọc là tòa biệt thự mà bà Nhu xây tặng riêng cho bố đẻ của mình là Trần Văn Chương lúc này đang là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ.

Biệt thự Bạch Ngọc và hồ bơi nước nóng, nơi giải trí của gia đình Lệ Xuân và các tướng tá quân đội chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam trước đây. Ngày nay, đến đây du khách có thể thỏa chí vẫy vùng trong làn nước trong mát của hồ bơi, ngồi thưởng trà, uống rượu, ngắm trăng, đón gió tại vọng lâu… Biệt thự Lam Ngọc là nơi nghỉ cuối tuần của gia đình Lệ Xuân, được trang bị hiện đại bậc nhất thời đó, có phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng trang điểm xa hoa của Lệ Xuân.

Chẳng ai biết Trần Lệ Xuân đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, nhưng vẻ kiêu sa, lộng lẫy của công trình này thì vẫn hiện diện cho tới ngày nay.

Khuôn viên của tòa biệt điện nằm trên diện tích 13.000m2 với đầy đủ phòng làm việc, hội họp, phòng khiêu vũ, phòng chiêu đãi… Ngoài sân có hồ bơi nước nóng, có vọng đài và một hoa viên cực đẹp do các kỹ sư đến từ đất nước Phù Tang thiết kế, vì vậy, nó còn được gọi tên là vườn hoa Nhật Bản. Phía sau vườn hoa này có một hồ sen, khi bơm đầy nước thì từ mặt hồ sẽ hiện rõ hình địa đồ Việt Nam - thể hiện giấc mơ “lấp sông Bến Hải” của ông bà “cố vấn”.

Đặc biệt, để đề phòng bị tấn công bất ngờ, trong biệt thự Lam Ngọc còn có một căn hầm trú ẩn được thi công bằng loại thép đặc biệt, có thể chống đỡ sức công phá của hỏa lực hạng nặng. Trong căn hầm này có một đường hầm thoát hiểm, cho đến nay, người ta vẫn chỉ phỏng đoán là nó dẫn ra phía sân bay Cam Ly, cách nơi này chừng 2km…

Mộc bản triều Nguyễn chính là những tấm gỗ quý được khắc chữ Hán và chữ Nôm (chữ khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi ra công chúng các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân y tuân. Đó cũng là những bản khắc lưu truyền công danh, sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử, các biến cố thời cuộc, các cuộc tiễu trừ giặc dã…

Kho tàng mộc bản triều Nguyễn hiện được bảo quản nghiêm ngặt và khoa học tại thành phố Đà Lạt là một dạng lưu trữ đặc biệt của Việt Nam và rất hiếm có trên thế giới. Đây thực sự là những tài sản vô giá. Các cơ quan hữu trách đang lập hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thời gian gần đây, dư luận đã bắt đầu quan tâm đến kho tàng này và nhiều đoàn khách trong và ngoài nước đã đăng ký được tham quan, tìm hiểu.

Hồ Than Thở


Vị trí: Hồ Than Thở nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 6km về phía đông, theo trục đường Quang Trung - Hồ Xuân Hương.

Đặc điểm: Đến thăm nơi đây, du khách sẽ được nghe kể về những chuyện tình cảm động đã mượn nước hồ để giữ mãi mối tình chung thủy.


Từ lâu, tên hồ Than Thở đã trở nên nổi tiếng với 2 câu thơ:

“Đà Lạt có thác Cam Ly
Có hồ Than Thở người đi sao đành”

Sở dĩ nổi tiếng là vì hồ nằm gần trường Võ bị quốc gia Đà Lạt (nay là Học viện Lục quân) và gắn liền với một thời hoàng kim của trường vào thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Cứ ngày nghỉ, lễ, chủ nhật là gia đình của các học viên và người yêu kéo đến gặp nhau vui chơi ở đây. Và cho đến nay vẫn còn câu chuyện Thảo - Tâm cùng ngôi mộ của người con gái xấu số tên Thảo lạnh lẽo ở Đồi thông 2 mộ (từ ngoài vào phía tay trái khu du lịch).

Hồ Than Thở nằm trên đồi cao giữa một rừng thông tĩnh mịch. Cảnh vật quanh hồ nên thơ, mặt nước hồ luôn phẳng lặng trầm ngâm. Con đường đất ven hồ như mất hút xa xa. Tại đây dường như chỉ còn nghe vi vút tiếng gió nhẹ, tiếng thông reo như thở than, như nức nở. Có một đôi cây thông yêu nhau rất lạ ở phía bắc của hồ tạo thành một đôi “tình nhân” thông quấn quýt bên nhau không rời và du khách có thể đến đó chụp hình lưu niệm. Đồi thông ở hồ Than Thở dường như cũng đẹp hơn các nơi khác vì thông thưa hơn, cao đều hơn nên khi ánh nắng mặt trời rọi xuống ngả bóng trên thảm cỏ rất đẹp.

Xa xưa nữa, nơi đây gắn với câu chuyện tình của Hoàng Tùng và Mai Nương. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 18, khi người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ dấy binh đánh đuổi bọn xâm lược nhà Thanh, trai tráng khắp nơi hưởng ứng, trong đó có Hoàng Tùng. Trước khi chia tay, hai người rủ nhau ra bên bờ than thở hẹn thề. Chàng hẹn đến mùa xuân - khi Mai anh đào nở sẽ đem tin thắng trận trở về. Ở nhà, Mai Nương được tin Hoàng Tùng tử trận nên nàng đã quyết định gieo mình bên dòng suối tự trầm. Nhưng trớ trêu thay, đến giữa mùa xuân Hoàng Tùng thắng trận trở về, chàng vô cùng đau buồn khi biết người yêu đã chết. Mấy năm sau triều đại Tây Sơn sụp đổ, Gia Long trả thù những người có công với triều Tây Sơn nên Hoàng Tùng đã tự vẫn bên hồ để được hạnh phúc với người yêu nơi chín suối. Từ đó hồ có tên là Than Thở cho đến ngày nay.

Thứ Ba, 24 tháng 6, 2014

Thác Dambri

 Vị trí: Thác Đambri nằm cách trung tâm thị xã Bảo Lộc khoảng 18km.
Đặc điểm: Đây là ngọn thác lớn ở Lâm Đồng, nằm giữa khung cảnh rừng nguyên sinh hoang sơ và hùng vĩ.

Du lịch Đà Lạt - Từ thị xã Bảo Lộc - Lâm Đồng qua những đồi chè, cà phê, cây ăn trái xanh ngát, du khách sẽ đến với khu du lịch sinh thái Đambri để được thưởng thức cảnh đẹp hùng vĩ cùng khí hậu trong mát của rừng nguyên sinh nam Tây Nguyên. Thác Đambri có độ cao khoảng 60m. Mùa mưa, nước thượng nguồn đổ về ầm ầm, đi xa vài kilômét còn nghe thấy tiếng. Xung quanh thác là một khu rừng hầu như vẫn còn giữ được nguyên vẹn nét đẹp hoang sơ chưa mấy người khám phá với diện tích gần 300ha cùng đủ loài chim. Nhiều cây cổ  thụ quý hiếm như sao, kền kền, dổi... gốc to tầm vài ba vòng tay người ôm cũng có mặt ở đây. Đường vào trung tâm khu du lịch có một cầu ximăng dài hơn 20m bắc ngang suối, gần đỉnh thác. Đứng trên cầu, khách du lịch có thể thưởng thức cảnh tượng hùng vĩ của dòng nước cuồn cuộn đổ từ đỉnh thác xuống. Khách muốn xuống chân thác có thể đi bằng hai đường: thang máy hoặc đường bộ. Nhưng hầu hết du khách đều chọn đường bộ men theo sườn núi, đã được bêtông hoá nên đi lại thuận tiện để được thưởng ngoạn phong cảnh.Theo lối mòn ven suối đi về phía thượng lưu, muốn sang bờ bên kia khách sẽ được một lần thử độ khéo léo và lòng dũng cảm khi chênh vênh đi trên chiếc cầu dây theo kiểu của đồng bào dân tộc ở địa phương vẫn làm. Cầu được bện từ những thứ dây leo rất sẵn ở rừng như song, mây, giang, lồ ô... Vào buôn của người dân tộc Châu Mạ - một trong những làng văn hoá dân tộc ở Tây Nguyên, khách sẽ được thưởng thức những lễ hội cồng chiêng, khám phá tìm hiểu về nghề dệt thổ cẩm truyền thống và cũng có thể tự mang lều trại để tổ chức sinh hoạt dã ngoại. Thật rất nhiều điều thú vị.

Để những chuyến tham quan của du khách thêm sinh động, Ban Quản lý khu du lịch sinh thái Đambri còn khoanh một khu vực nuôi các loài thú. Đảo khỉ tại đây có hàng trăm con, hươu nai được nuôi thả tự do khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng và thích thú khi bắt gặp. Cũng có cả những khu nuôi gấu, ba ba, rùa. Đặc biệt, có những chú voi đã được thuần dưỡng và ngoan ngoãn tuân theo sự chỉ dẫn của quản tượng. Du khách có thể ngồi trên lưng voi để chụp ảnh lưu niệm. Đi một vòng quanh khu du lịch rộng lớn, du khách có thể nghỉ chân bên hồ nước Đambri rộng hàng nghìn mét vuông, thuê một chiếc thuyền để hưởng thú câu cá trên hồ.

Thác Pongour Đà Lạt

Thác Pongour là một ngọn thác nổi tiếng đẹp mơ màng, hùng vĩ, hoang dã nhất của Nam Tây Nguyên. Do đó, nếu đến Đà Lạt khách không thể quên được thác Pongour.

Thác Pongour thuộc huyện Đức Trọng, cách huyện lỵ 20km và xa trung tâm thành phố Đà Lạt 50 km. Trên quốc lộ 20 Đà Lạt - Sài Gòn, đến xóm Trung (phía núi Chai) rẽ về phía tay phải đi một quãng đường đất dài độ 8 km du khách sẽ đến được thác Pongour mà người dân địa phương gọi là thác Bảy Tầng hay là thác Thiên Thai. Về tên gọi Pongour có hai giả thuyết như sau:

Thứ nhất, Pongour là do tên người Pháp phiên âm từ tiếng dân tộc bản địa (K'ho: Pon - gou (với nghĩa là ông chủ vùng đất sét trắng). Qua một số tài liệu địa chất học của người Pháp, vùng này có nhiều kaolin. Như vậy, Pongour có nghĩa là ông chủ hay ông vua xứ Kaolin.

Du lịch Đà Lạt - Giả thuyết thứ hai hiện nay khá phổ biến, được nhiều người nhắc đến: Pongour xuất phát từ ngôn ngữ K'ho có nghĩa là bốn sừng tê giác (Pon: bốn, gou: sừng). Giả thuyết này lấy từ môt truyện cổ trong kho tàng truyện cổ K'ho - Chàm, Churu. Nội dung truyện cổ ấy như sau:
Ngày xưa vùng đất Phú Hội - Tân Hội - Tân Hà ngày nay do nàng Ka Nai làm chủ. Ka Nai là một tù trưởng nữ xinh đẹp, trẻ, có sức mạnh hơn cả thanh niên dũng sĩ K'ho - Churu. Nàng lại có tài chinh phục thú rừng, đặc biệt là loại Tây u (tê giác) (Rơmis). Do đó, trong bộ lạc của nàng có đến bốn con tê giác khác thường. Ka Nai thường dùng bốn con tê giác ấy để khai phá núi rừng đồi suối và đánh giặc bảo vệ buôn làng. Thuở ấy, giặc Prenn (người Chàm) ở Panduranga (Ninh Thuận ngày nay) thường lên quấy phá, bắt bớ dân địa phương về vương quốc Chăm để làm phu, làm xâu (một hình thức nô lệ), hoăc đi lính chống lại người Yuan (Kinh).

Một lần, dân tộc của bộ tộc Ka Nai bị lính Prenn bắt đi khá nhiều. Căm giận trước cảnh ấy, Ka Nai đã kêu gọi các bộ tộc Tây Nguyên như Sré, Mạ, Nộp... nổi dậy chống người Prenn. Nàng đã tự mình cưỡi tê giác cùng với đoàn quân Tây Nguyên xuống đánh phá vương quốc Panduranga để báo thù. Ka Nai đã chiếm được bốn thành của người Prenn, cứu được hàng trăm dân K'ho bị người Prenn bắt làm nô lệ trước đây. Nhưng qua chiến thắng này, Ka Nai thấm thía nỗi nhân tình thế thái: một số người K'ho Mạ đã theo giặc Prenn, chịu làm xâu, tớ cho người Prenn chứ không chịu về Tây Nguyên - quê hương cũ, mặc dù nhiều người K'ho Mạ ấy đã có gia đình tại quê nhà.

Đau buồn và tức giận trước nghịch cảnh ấy, Ka Nai quyết trừng trị những ai bội nghĩa quên tình. Và, sau đó nàng phải xây dựng lại cuộc sống cho buôn của nàng. Ka Nai cùng bốn con tê giác ngày đêm ủi núi san đồi để tạo dựng một "vương quốc thủy chung" cho người K'ho của nàng. Pongour là dấu vết bốn con tê giác cắm xuống núi rừng Tây Nguyên để mở ra một kỷ nguyên văn hóa cho các dân tộc tại đây.

Thác Pongour có lịch sử từ nhiều người, nhiều giai đoạn và ngày nay có ngày kỷ niệm. Đó là dịp trăng tròn đầu tiên của mùa ấm áp, núi rừng khởi sắc để làm ngày "kỷ niệm" cho bộ tộc của nàng. Trong những năm 60 của thế kỷ này, nhiều người Hoa ở Tùng Nghĩa (Đức Trọng) nhân tết Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng) thường tổ chức các cuộc viếng chùa miếu, lăng tẩm, các thắng cảnh, các di tích lịch sử kết hợp với phong tục của dân bản địa (K'ho, Churu) và người các dân tộc di cư 1954 (Thái, Thổ, Tày, Nùng...) cùng đặt ra lễ thác Pongour (thường gọi là thác Thiên Thai). Vào rằm tháng Giêng âm lịch hàng năm từng đoàn người từ các thị trấn Liên Nghĩa, Cao Bắc Lạng, Lục Nam... của Đức Trọng và các vùng Brơtel, Phú Mỹ, Lạc Sơn, Bằng Tiên, Ngọc Sơn, Đinh Văn... của Lâm Hà nườm nượp trẩy hội thác Pongour.

Trong dịp này, nam thanh nữ tú Bắc Nam, Kinh-Thượng, Hoa-Việt, Thái-Tày... đều rộn rã du xuân, hồ hởi vượt qua bảy tầng thác Pongour, mong vào được chốn Thiên Thai. Đây là dịp mà người ta không còn phân biệt Kinh-Thượng. Họ tự trao đổi tâm tình, tìm hiểu và yêu mến nhau. Tục truyền rằng: những ai không thành thật, không chung thủy, những kẻ bất tín, bội thề đã đến thác Pongour, thì ít khi được trở về; nàng Ka Nai nổi giận, do đó sai Yàng Pongour giữ lại những ai thuộc diện người nói trên tại dòng thác Pongour để nàng dạy cho họ những bài học về con người ... Có người không dám đến Pongour là vì thế. Nhưng đến Đà Lạt mà không đến thăm Pongour thì cũng như chưa đến Đà Lạt, chưa thấy được vẻ mơ màng hoang dã của Nam Tây Nguyên. Và những ai trong sáng thì có ngại gì. Những năm gần đây du khách đến trẩy hội Pongour ngày càng nhiều và thật vui mừng là hàng ngàn du khách lên Đà Lạt đến thăm Pongour đều bình an trở về. Phải chăng Yàng Pongour đã thẩm định đích xác lòng người?

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Nhà thờ Cam Ly

Vị trí: Nhà thờ Cam Ly nằm trên một quả đồi rất gần thác Cam Ly, thuộc thành phố Đà Lạt.

Đặc điểm: Nhà thờ Cam Ly có một kiến trúc độc đáo theo lối nhà rông của đồng bào Tây Nguyên.
 
Trong số gần 100 công trình kiến trúc công giáo xuất hiện ở Ðà Lạt từ thập niên 1920 đến thập niên 1960, nhà thờ Cam Ly được xây dựng riêng cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vì thế nó mang một sắc thái độc đáo khác hẳn với các giáo đường dành cho người Kinh. Những người tạo tác nên ngôi nhà thờ đã thể hiện sự "hội nhập văn hóa" qua nghệ thuật kiến trúc khi cho gương mặt chúa trời hòa nhập với gương mặt của Yàng (trời) mà những người dân nơi đây đã nghìn năm sùng bái.

Khai sinh ra ý tưởng về ngôi nhà chung của Chúa và Yàng là linh mục người pháp Boutary và người thể hiện thành công ý tưởng này là nhà thầu Nguyễn Thanh Hồ. Công trình được khởi công vào cuối năm 1959 và hoàn thành tám năm sau đó. Nhìn ngang, hai mái giáo đường giống như lưỡi rìu, dốc đứng 17m, được lợp bằng 80.000 viên ngói với tổng trọng lượng tương đương 90 tấn. Ðể chịu đựng được sức nặng của ngôi nhà với cột, kèo, giằng bằng bê-tông, sắt và gỗ, móng của công trình đã được gia cố hết sức kỹ lưỡng. Riêng phần móng nhà thầu đã phải cật lực làm trong vòng nửa năm.Trước cổng chính nhà thờ là hai hình tượng hổ và phượng hoàng - những loài vật quen thuộc trong hiện thực và trong ý thức của đồng bào thiểu số. Hổ tượng trưng cho sức mạnh và phượng hoàng thể hiện cho sự tinh khôn. Mặt khác, các nhà tạo tác cũng ngầm ví von các cư dân Thượng có bản tính vốn như chúa sơn lâm nhưng đã trở nên tốt lành, thanh dịu như chim phượng nhờ các tín điều tôn giáo. Cùng tư duy đó, nội thất thánh đường còn xuất hiện nhiều hình ảnh các loài vật khác thể hiện bản tính của chúng như: sự trong sáng của nai, sự gần gũi của chim và cá... Ðặc biệt dưới chân thánh giá, bên cạnh cung thánh bằng gỗ thông có treo ba đầu trâu theo thứ tự cao thấp. Trâu là linh vật mà người thiểu số ở Tây Nguyên thường dùng làm vật phẩm để "giao tiếp" với Yàng của họ, trong trường hợp này là kính dâng Thiên Chúa như một thông điệp biểu lộ lòng sùng kính.

Sau ba khung cửa lớn là nội thất giáo đường với diện tích gần 400m², một không gian vừa u huyền, thâm nghiêm vừa khoáng đạt, phóng túng. Cảm giác đó có được là do hiệu quả các giải pháp kiến trúc. Nối với những bức tường lửng có độ cao khoảng 3m được xây bằng đá chẻ là hệ thống cửa kính mầu xanh-nâu-vàng trong các khung gỗ. Các khung cửa liền nhau và giáp mái này cùng với 20 vì kèo tương ứng đều được cách điệu từ hoa văn Tây Nguyên mà chủ đạo là hình vuông và hình tam giác - tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời trong môtip bản địa về quan niệm vũ trụ. Ðối xứng phải trái là 16 bức tranh đá trong đó có 14 bức diễn tả các chặng thương khó của Chúa Jesus và ngày ngài thọ nạn, phục sinh...Ở đây, cùng với nghệ thuật sắp đặt và giải pháp kiến trúc, các nhà tạo tác đã kết hợp hài hòa và thành công giữa tư duy mộc mạc, tự nhiên của đồng bào các dân tộc thiểu số với triết lý tôn giáo nhân bản và sâu sắc.

Khu du lịch sinh thái Đa Mê


*Vị trí: Đa Mê nằm giữa buôn làng N’ Thol Hạ của người bản địa K’Ho, cách ngã ba Liên Khương – Đức Trọng – Lâm Đồng khoảng 8km.

*Đặc điểm: Đa Mê bao gồm 2 ngọn thác Đa Mê 1 và Đa Mê 2 cao ngất, ầm ào tuôn chảy ngày đêm giữa núi rừng hùng vĩ.

Đa Mê là một hệ thống các kênh rạch, ngoằn ngoèo chạy ẩn mình dưới những tán rừng xanh ngắt…Tất cả “quần thể” độc đáo này được thiên nhiên kiến tạo từ muôn đời nay nhưng phải đến giữa đầu năm 2001 mới được khám phá và đánh thức bởi doanh nghiệp Thanh Long. Chủ doanh nghiệp dịch vụ sinh thái này là ông Phạm Văn Thược – một kỹ sư nông nghiệp (đúng hơn là một nông dân) gốc người Hà Nội. Ông đến khai phá và định cư ở vùng đất mới Nam Ban – Lâm Hà – Lâm Ðồng từ năm 1976. Đặt viên gạch khởi công đầu tiên, ông Thược phải bỏ ra 40 triệu đồng đền bù một số hộ sản xuất nông nghiệp để san ủi, mở rộng một con đường với chiều dài hơn 200m, rộng 6m từ quốc lộ 27 chạy đến thác. Kế tiếp, ông xây dựng khu nhà nghỉ, cửa hàng nằm giữa công viên với hàng trăm dáng bonsai, hàng ngàn “kỳ hoa dị thảo”. Rừng, suối, thác, động vật hoang dã, hồ bơi, nhà rông… được bố trí trong một không gian hài hoà, rộng hơn 30ha. Ở đây, chiếc cổng chào cũng thật đặc biệt: cao 8m, mô phỏng theo kiến trúc “Vạn lý trường thành”. Bên cạnh hồ bơi tại khuôn viên là phòng trưng bày các mẫu vật Tây Nguyên. Những hang động, hòn non bộ cũng được xây dựng khá cầu kỳ, trong đó thích nhất là tượng mãnh hổ và đại bàng đang sà cánh hướng vào nhau, biểu tượng của cảnh “Anh hùng tương ngộ” đậm chất sử thi Tây Nguyên…

Lên du lịch Ðà Lạt – Lâm Ðồng du khách không chỉ được nghỉ lại đêm giữa rừng, lắng đọng với nhịp điệu cồng chiêng cao nguyên mà còn được len lỏi trên dòng kênh rạch với những chiếc thuyền độc mộc; được câu cá, thưởng thức những sản vật sông hồ giữa rừng thông lộng gió, ngắm hàng dừa xanh xoã bóng bâng khuâng xuống mặt hồ. Ông Thược chọn hai thung lũng gần kề vốn sình lầy, um tùm cỏ dại để nạo vét, xây dựng kè đá, dẫn nước từ thác vào bằng kênh đào dài hơn 200m. Hồ bơi rộng 400m², hồ du thuyền và câu cá rộng gần 5.000m² tha hồ cho khách du lịch đắm mình giữa không gian trời-mây-rừng-suối -nước cao nguyên.

Ðây là một khu du lịch sinh thái có quy mô lớn hàng đầu ở Lâm Ðồng với tổng số tiền cho những hạng mục đầu tư hoàn thành là 3,5 tỷ đồng. Hiện nay, khu du lịch sinh thái Đa Mê đã chính thức “trình làng” đón khách. Người dân bản địa, người dân địa phương được tự do ra vào, không phải thu vé vào cổng. Từ đây, trên bản đồ du lịch Ðà Lạt – Lâm Ðồng, du khách sẽ có thêm tour mới: du lịch sinh thái Thanh Long.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014

Văn hoá Đà Lạt


Tuy là một thành phố trẻ nhưng bề dày văn hoá ở đây cũng rất được chú ý về sự phong phú, đa dạng, vừa mang tính truyền thống và hiện đại.

Văn hoá của dân tộc Cơ Ho bản địa, văn hoá của các cộng đồng dân cư ở châu thổ sông Hồng, vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và sự giao lưu văn hoá thế giới đã tạo nên những nét đặc trưng trong phong cách người Đà Lạt: hiền hòa, thanh lịch và mến khách.
Đà Lạt là một đề tài luôn mới mẻ, hấp dẫn, phong phú mà các giới nghiên cứu khoa học tự nhiên, xã hội, văn học - nghệ thuật luôn đeo đuổi tìm hiểu và sáng tác.

Quá trình hình thành và phát triển Đà Lạt cũng là quá trình hình thành truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Đà Lạt. 

Với hoàn cảnh khốn khó và điều kiện khắc nghiệt, muốn tồn tại, đoàn người làm phu "tứ cố vô thân" từ bốn phương qui tụ về đây phải thương yêu đùm bọc nhau, gắn bó sống chết không rời để tạo nên sức mạnh đoàn kết đấu tranh. Chẳng những đấu tranh với thiên nhiên mà phải đấu tranh với quân thù một cách quyết liệt, chống lại sự áp bức bóc lột để giành quyền sống vốn có của con người .

Khám phá loài hoa Mimosa Đà Lạt

Mimosa không đẹp rực rỡ như các loài hoa khác, nói mang vẻ kiêu sa bởi sắc vàng quyến rũ. Nó chỉ là loài hoa dại mọc hoang dã giữa cao nguyên lộng gió. Mimosa tựa như cây xương rồng, cũng khắc khổ, cũng phải chịu kiếp hoa dại. Ấy thế mà, nó đã vượt lên muôn vạn màu hoa khác trở thành biểu tượng của cả vùng đất, biểu tượng của tình yêu, nỗi nhớ, cho nét đẹp trinh nguyên thuần khiết của người thiếu nữ. Mimosa, loài hoa“Trinh nữ” vàng của cao nguyên Đà Lạt.

Nhiều người vẫn thường gọi Đà Lạt bằng một cái tên mỹ miều "thành phố ngàn hoa". Suốt bốn mùa xuân - hạ - thu - đông ngàn vạn bông hoa thay nhau khoe sắc. Hơi thở tình yêu, hơi thở cuộc sống của Đà Lạt luôn mang hương sắc của hoa. Hoa cũng là tâm hồn kiêu sa của một Đà Lạt đầy mơ mộng. 

Giữa bạt ngàn của muôn sắc hoa, mimosa (Acacia podalyriaefolia, họ Mimosaceae) loài hoa tượng trưng cho tình yêu thầm kín và vẻ đẹp khiêm nhường vẫn quyến rũ đến nao lòng dù chỉ là loài cây hoang dã, mọc ở rừng hoặc ven đường nên hoa phải chịu kiếp hoa dại, không bao giờ được trồng trong vườn nhà.

Bởi hoa có hình cầu giống hoa trinh nữ (Mimosa pudica L) nên người ta vẫn gọi mimosa với cái tên mộc mạc là "trinh nữ vàng". Không biết loài hoa nay du nhập về Đà Lạt tự bao giờ, chỉ biết loài hoa này có xuất sứ từ Australia.

Truyền thuyết Mimosa kể rằng: Thuở xa xưa, trên vùng đất Australia tươi đẹp, đầy nắng ấm nằm giữa biển khơi, có một đôi tình nhân yêu nhau say đắm. Chàng trai có thân hình vạm vỡ và một trí thông minh tuyệt vời là con của một ngư dân. Cô gái là tiểu thư quyền quý được cưng chiều hết mực của một gia đình quý tộc đẹp rực rỡ, đài các, yêu màu vàng và được Chúa ban cho một tấm lòng nhân hậu. Họ say đắm ben nhau trong những nụ hôn ngọt ngào và cả cuộc đời trên cảng biển Sydney thơ mộng. 

Thế rồi sóng gió ập đến, gia đình cô gái ép nàng phải cưới Công tước Hoàng gia. Nàng đành chấp nhận lên xe hoa dù bao lần phản đối kịch liệt nhưng vô vọng. Chàng trai đau đớn, buốn bã trước cảnh người mình yêu lấy chồng, từ giã biển khơi bỏ nghề chài lưới, lên một vùng núi cao hiểm trở làm nghề giữ rừng để quên đi mối tình sâu đậm nhưng tuyệt vọng.

Lúc lên đến nơi thì xảy ra hỏa hoạn nghiêm trọng, bất chấp hiểm nguy, chàng quên mình cứu rừng xanh và những con thú rừng vô tội. Ngọn lửa quái ác đã thiêu sống và cướp đi sinh mạng của chàng. 

Cô gái nơi quê nhà hay tin người mình yêu bỏ biển lên ngàn để tìm quên sầu muộn của mối tình đầu dang dở, thì cũng bỏ trốn ngay đêm tân hôn tìm người thương. Nhưng trế trêu thay, lúc tới nơi nàng chỉ thấy xác chàng ên đống tro than của cánh rừng bị cháy. Trong đau đớn tuột cùng trước cảnh sinh li tử biệt, cô gái đã gục chết bên người mình yêu.

Nơi đôi tình nhân đã chết vì tình yêu dang dở của mình mọc lên một loài cây thân mộc, lá màu xanh biếc, lấp lánh hoa vàng thơm mát. Cùng từ đó trên vùng núi cao của đất nước Australia thơ mộng xuất hiện một loài hoa dại mang tên Acacia Podalyriaefolia Cunn Mimosaceae hay còn gọi là Mimosa. Loài hoa với hương thơm nhẹ nhàng quyến rũ, mang sắc vàng quý phái, kiêu sa mà chẳng loài hoa dại nào có được.

Mimosa trên Đà Lạt mọc nhiều nhất ở Thung lũng Tình yêu và đặc biệt nhiều ở đèo Mimosa, con đèo trên đường Quốc lộ 20 cũ dẫn vào thành phố. Những khúc cua uốn lượn như cánh võng của con đèo mở ra góc nhìn bao la của vùng cao nguyên thơ mộng. Con đèo mang tên một loài hoa quý phái và loài hoa kiêu sa ấy vẫn đêm ngày ôm ấp con đèo như mối lương duyên bất tử mà "ông tơ bà nguyệt" đã sen nên. Đèo nhỏ vắng, nên thơ như được tạo ra dành cho những chuyện tình yêu mà chẳng hề vướng chân lữ khách.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta đặt cho nó cái tên "Trinh nữ". "Trinh nữ" đẹp tự nhiên, nhẹ nhàng mà kiêu hãnh giữa đất trời bao la. Dù là loài lá kim hay lá tròn thì hoa cũng chỉ nở vàng khi tiết trời ấm áp. Hoa sẽ tàn phai mỗi khi trời lạnh giá, lá cũng sẽ bạc màu tựa như phủ phấn trắng lên trên. Không nở vàng hoang dại như dã quỳ, hay kiêu sa như hoa cúc. "Trinh nữ" dịu dàng nhưng ngây ngất chứ chẳng nồng nàn như hương hoa hồng. Dù là mùa xuân hay mùa hạ, dù lá bạc hay xanh biếc mỗi khi có ai đớ lỡ tay chạm vào cũng đều cụp lại, e ấp ngượng ngùng như nàng thiếu nữ tuổi hẵng còn xanh.

Nếu có dịp đi du lịch Đà Lạt, bạn hãy một lần thưởng thức vẻ đẹp loài hoa "Trinh nữ" vàng kiêu sa này nhé!
 

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

Đà Lạt- Thành phố hoa Mai Anh Đào

Theo các nhà chuyên môn, Đà Lạt hiện có nhiều giống Mai Anh đào; trong đó, đặc trưng nhất vẫn là Mai Anh đào Đà Lạt. Mai Anh đào Đà Lạt (Prunus Cesacoides) có thân thuộc giống đào mận (chi Prunus) nhưng hoa thì lại thuộc hoa đơn năm cánh giống hoa mai (thuộc chi Cerasus). Có lẽ vì điều đó nên loài hoa “vừa đào lại vừa mai” này của xứ hoa Đà Lạt được gọi tên một cách chính xác là “Mai Anh đào Đà Lạt”.

Nhiều nhà khoa học từ trước đến nay trong các nghiên cứu của mình vẫn nghiêng về xu hướng khẳng định Mai Anh đào Đà Lạt là loài cây bản địa; hơn thế, nó còn là loài cây bản địa của riêng Đà Lạt (ngược lại với xu hướng cho rằng Mai Anh đào Đà Lạt là loài cây di thực từ nước ngoài về).

Trong nghiên cứu của ông Nguyễn Thái Hai, một Việt kiều gốc người Đà Lạt, cho biết: Bố của ông (ông Nguyễn Thái Hiến), là người gốc Nghệ An, chuyển vào sống ở Đà Lạt năm 1927. Ông Nguyễn Thái Hiến từng là Giám thị lục lộ, và là người được chính quyền cũ giao nhiệm vụ trồng cây cảnh trong các khuôn viên, dinh thự… Trong khi làm nhiệm vụ trồng hoa, ông Hiến đ&˜ phát hiện tại một khu rừng gần ấp Tân Lạc có những cây hoa vừa giống hoa mai và vừa giống hoa đào nên đã đề nghị với chính quyền cho phép ông mang giống hoa này về trồng dọc theo các đường phố trung tâm.

Nếu may măn thăm Đà Lạt vào dịp cuối năm, bạn chắc chắn sẽ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp cùa Mai Anh Đào nhuộm hồng cà phố núi.
Dọc tuyến đường trung tâm thành phố như Lê Đại Hành, đường ven hồ Xuân Hương và rải rác trên khắp các con đường của Đà Lạt, những cây Mai Anh Đào trĩu bông như thắp lên những ngọn đèn rực rỡ trong khí trời se lạnh.

Mai Anh Đào không chỉ là niệm tự hào của người Đà Lạt mà còn là những kỉ niệm khó quên của du khách đến du lịch Đà Lạt trong những ngày cuối năm, như những ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn trong những ngày từng đợt không khí lạnh giá tràn về thành phố sương mù.

Nét quyến rũ của Đà Lạt


Có rất nhiều cái tên người ta đã dùng để đặt cho Đà Lạt: Thành phố Ngàn hoa, Xứ sở tình yêu, thành phố buồn, thành phố mộng mơ, Xứ hoa đào… Thiên nhiên và con người thành phố này đi vào những áng văn thơ, những bức tranh ảnh, vào nghệ thuật, và trong tim mỗi du khách khi đi du lịch Đà Lạt.


1. Đà Lạt – Xứ lạnh của phương Nam

Còn gì tuyệt hơn khi có thể chạy trốn cái nắng nóng của Sài Gòn, đến với Đà Lạt yên bình. Những người con phương Nam chưa bao giờ biết đến mùa đông phương Bắc có thể cảm nhận chút ít tại Đà Lạt. Điều đặc biệt là tiết trời Đà Lạt chỉ se se chứ không quá lạnh… cực kỳ đáng giá là địa điểm nghỉ ngơi.


2. Nằm co ro trong chăn ấm mỗi buổi sáng

Khi đi du lịch Đà Lạt, vào sáng sớm những cơn gió lạnh ùa vào, liệu bạn có muốn rời khỏi “chiếc chăn gió ấm” không? Đó là lý do vì sao nhiều bạn đến Đà Lạt cực kỳ mê khoản… ngủ nướng, bên cạnh rất nhiều điều thú vị khác mà thành phố này mang lại.


3. Được mặc áo len và diện “mốt” mùa đông

Con gái Sài Gòn có lần nhìn thấy con gái Hà Nội xúng xính áo váy trong mùa đông, với bao tay, khăn choàng cổ, áo len, mũ len… chắc đôi khi cũng mường tượng ra mình trong hình ảnh đó. Chỉ cần đến Đà Lạt, bạn có thể sắm và diện những “mốt” dành cho mùa đông ấy. Tuy trang phục đó không phải dành cho những lúc lạnh nhất, nhưng vậy là quá tuyệt rồi!


4. Bánh mì nóng, vừa ăn vừa thổi, trong cái se lạnh khi đêm về

Lại nói về đặc sản “lạnh”. Dạo buổi tối ở Đà Lạt, đến quầy bánh mì nóng, mua một cái và thưởng thức, hít hà trong cái se lạnh của nơi đây, không ngạc nhiên khi có bạn thổ lộ rằng: Ăn bánh mì pa tê nóng không ở đâu ngon bằng Đà lạt.


5. Không khí trong lành

Với rừng thông bạt ngàn, rất nhiều hồ nước, sông suối, Đà Lạt sở hữu khí hậu tuyệt vời. Không khí ở đây trong lành, mát mẻ, khác hẳn sự ngột ngạt, đông đúc của những đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội. Đến Đà Lạt, bạn có thể trải nghiệm 1 ngày với 4 mùa: Buổi sáng sớm là thời tiết của mùa xuân, buổi trưa là mùa hạ, buổi chiều là mùa thu, và đêm là mùa đông….  Do đó du lịch Đà Lạt không cần mùa, cần tháng. Đà Lạt lúc nào cũng đẹp, cũng mát diụ, cũng nên thơ.


6. Dạo bước cùng “người ấy” bên hồ Xuân Hương

“Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ…”, đó là giai điệu thật hay trong một bài hát nổi tiếng về thành phố Đà Lạt. Xứ sở mộng mơ ấy là nơi hò hẹn lãng mạn của đôi lứa đang yêu. Nào hồ Xuân Hương, thung lũng Tình Yêu, đồi Mộng Mơ…, hãy đến Đà Lạt và cùng “người ấy” dạo bước ở những địa danh tuyệt vời ấy nhé.


7. Thành phố ngàn hoa

Thiên nhiên ưu đãi cho xứ sở Đà Lạt khí hậu ôn hòa, thiên đường của rất nhiều loài hoa. Trong đó hoa Dã Quỳ, hoa Mimosa hay hoa Đào là nổi tiếng nhất. Hiện nay, người Đà Lạt vẫn giữ được nhiều thói quen đẹp, ai ai cũng thích trồng hoa. Hoa có ở trước hiên nhà, ven đường, hay hoa mọc dại khắp nơi tạo cho Đà Lạt hình ảnh đẹp trong lòng du khách.


8. Thiên đường của rau quả tươi ngon

Bên cạnh du lịch, có thể nói trồng trọt chính là hướng đi thành công của thành phố Đà Lạt. Nhờ khí hậu 4 mùa, Đà Lạt có rất nhiều loại rau quả trong Nam ngoài Bắc. Đi chợ Đà Lạt buổi sớm, bạn có thể chọn thấy những gánh hàng tươi rói với bông cải xanh, bắp cải, a – ti – sô, dâu tây, đậu ván mới vừa hái,... Du khách có thể lên lịch chuyến vi vu Đà Lạt thêm một buổi tham quan vườn cây của nông dân. Cảm giác được tự tay thu hoạch những trái dâu tây đỏ mọng.


9. Những quán cà phê cực “chất”

Người dân Đà Lạt nổi tiếng hiền hòa nhưng những quán cà phê thì rất khác, cá tính và đôi khi khá… quái. Đó là cafe Song Vy chuyên mở nhạc trữ tình của Pháp; Cafe Liễu Ơ (tức là lỡ yêu )nằm sau Dinh II, ấn tượng bởi kiểu thiết kế sân vườn mang nét đặc trưng của Đà Lạt; cafe Mộc ở đường Bà Trưng, thiết kế toàn là gỗ, cuối tuần nào cũng có nhạc sống do ca sĩ hát rất hay; quán cà phê Tùng nằm ở ngay khu Hòa Bình chỉ phục vụ nhạc cổ điển dành cho người sành nhạc lại sành cà phê; quán cà phê Trăm Mái như một hang động với nhiều ngõ ngách, thiết kế kỳ dị, đầy tính ngẫu hứng; đến quán cà phê “độc” và lạ của Đà Lạt - cà phê Cung tơ chiều, lắng nghe giọng hát khàn khàn, đầy chất lửa và đặc biệt là ma quái của chị chủ quán…


10. Nơi để bạn sống chậm

Nhịp sống chậm rãi, hiền hòa của Đà Lạt sẽ giúp bạn sống chậm, suy nghĩ chậm, để thấy lòng mình bớt chai sạn hơn…. Biết đâu, nhờ thế chúng ta nhận ra chúng ta thật sự muốn gì, đã làm được gì và sẽ làm gì với công việc và cuộc sống.

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Hương vị chuối Laba

Tìm đến với mảnh đất Đà Lạt du khách sẽ có dịp thưởng thức những món ăn đặc sản của vùng đất này trong đó có chuối Laba - một loại chuối có tỷ trọng xuất khẩu cao. Những ai khi du lịch Đà Lạt đều không quên mang về một vài nhánh chuối Laba để làm quà cho mọi người.

Sở dĩ có cái tên chuối Laba, bởi trước đây khi vào xâm chiếm vùng đất mà nay là xã Phú Sơn thuộc huyện Lâm Hà, người Pháp gọi mảnh đất này với cái tên Laba. Sau quá trình tìm hiểu, nhận thấy khí hậu thổ nhưỡng ở vùng đất này phù hợp với cây chuối, người Pháp tổ chức cho người dân Laba xưa trồng chuối và từ đó xuất hiện một loại chuối gắn liền với tên vùng đất – chuối Laba. Loại chuối Laba giờ được trồng rộng hơn ra cả những vùng lân cận của Phú Sơn như Đà Lạt, Đức Trọng, Đơn Dương… và vẫn giữ được vị dẻo, thơm rất riêng.Từ năm 2007, Tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành nghiên cứu phục tráng và phát triển chuối Laba và cho trồng trên diện rộng. Hiện nay, chuối Laba Lâm Đồng đã được công nhận là đặc sản của Đà Lạt.
Chuối Laba là thứ quả dân dã. Nó dân dã vì chính vị ngon ngọt chân thật giống như người dân quê hồn hậu. Nhưng có mấy ai biết rằng thứ quả mộc mạc, giản dị ấy từng được dâng vua một thủa? Từ thời Pháp thuộc, tiếng tăm của chuối Laba đã vang xa, theo những chuyến xe ngựa ra tận Huế dâng lên vua, là thức quà quen thuộc sau những bữa ăn nơi thành nội. Thời gian sống ở Đà Lạt, chính vua Bảo Đại –vị vua cuối cùng của triều đình Phong kiến Việt Nam, vì thích mùi thơm của chuối Laba mà đã từng yêu cầu dùng chuối Laba làm món tráng miệng sau các bữa cơm chiều.

Quả không mập, phốp pháp như chuối hột, không nhỏ nhắn như chuối tiêu, cũng không mỡ màng, căng tròn như chuối ngự, chuối Laba rất dễ nhận ra bởi hình dáng đặc trưng của mình. Quả thon dài, hơi cong, cuống buồng nhỏ, trái úp úp vào buồng như mảnh trăng lưỡi liềm lấp ló. Khi chín, quả có màu vàng óng mượt mà, một sắc vàng hươm rất dễ chịu và có phần quyến rũ nhất là dưới trời thu. Sắc vàng của lớp vỏ bên ngoài đã “ngon mắt” đến thế, càng ngỡ ngàng hơn khi ta bóc lớp vỏ ấy đi sẽ thấy cả một thiên đường ngọt lành, thơm thảo hiện ra. Thịt chuối Laba nuột nà, vàng sánh, cắn một miếng thấy dẻo dẻo, thơm thơm hương vị đầy chất tự nhiên thấm dần vào đầu môi, trôi nhẹ vào trong miệng rồi lan tỏa trong cơ thể.
Chuối Laba thuộc nhóm chuối Cavendish AAA, hiện có hai dòng chính: Dòng thân trắng và dòng thân tím, cây chuối cao từ 3-3,5 m, mỗi buồng có khoảng từ 10-12 nải, trọng lượng trung bình từ 40-50kg. Người dân vùng Phú Sơn vẫn quen gọi chuối Laba với cái tên nghe rất mộng mơ là chuối Dạ hương, và  lại chia nó ra làm hai loại nhỏ là Dạ hương cao và Dạ hương cùi.
Dạ hương cao khi chín có mùi thơm hơn, đặc trưng và đậm đà như mùi sầu riêng vậy. Nhà ai có buồng chuối Dạ hương cao đang chín, khách tới nhà sẽ phát hiện ra ngay và bên cạnh chén trà, ấm nước, chủ nhà luôn dọn sẵn một đĩa chuối thơm lừng. Chuối Laba cho thu hoạch quả quanh năm. Ngày nay, người ta ít nhân giống bằng cây con, những hộ gia đình trồng theo quy mô lớn sử dụng cây con bằng cách nuôi cấy mô, đảm bảo sạch bệnh, còn những hộ gia đình trồng ít để ăn thì có thể tách cây con từ cây mẹ, nhưng dù chọn giống bằng cách nào thì hương vị và sản lượng của chúng vẫn như nhau.
Đến với Lâm Đồng du khách có thể tìm mua chuối Laba dễ dàng ngay tại các chợ trong nội thành với giá từ 10.000đ-15.000đ/kg. Nếu chịu khó đi xa hơn về các huyện Lâm Hà, Đơn Dương, Đức Trọng, để mục sở thị nhiều điều về loài cây này ngay tại những vườn chuối thì du khách sẽ được chủ vườn mời thỏa sức nếm thử và mua đem về với giá chỉ từ 5.000đ-7.000đ/kg.
Đứng giữa vườn chuối trĩu quả, đủ làm ta thấy xôn xao. Thoáng thấy mùi hương dịu dàng lan tỏa trong không gian là biết sắc vàng đang căng dần mỗi trái chuối. Khi bóc ăn một quả chuối sẽ nhận được đầy đủ vị thơm đậm đà hơn như sự quấn quýt của mùi nắng, mùi mưa, của giọt mồ hôi người nông dân và tinh túy của cả vùng đất Laba Lâm Đồng.

Vườn hoa Minh Tâm

Khuôn viên rộng, môi trường sinh thái trong lành với những bồn hoa hồng cổ thụ nhất Đà Lạt, nay vườn hoa Minh Tâm còn được quy hoạch nâng cấp trở thành nơi bảo tồn phát triển giới thiệu các loại hoa vốn có của Đà Lạt – Tây Nguyên với hơn 200 bồn hoa, tiểu cảnh luôn khoe sắc, các loài hoa quý hiếm trong nước và trên thế giới. Khu du lịch chính là một sự kết hợp hài hòa giữa bàn tay tài hoa của con người và cảnh quan thiên nhiên không làm mất đi sự thơ mộng vốn có của Đà Lạt.
 
Vườn hoa Minh Tâm tọa lạc tại 20A đường Khe Sanh , trong một khu vườn có diện tích khoảng 18 hecta đa số là rừng thong. Ban đầu , nơi đây là khu biệt thự của chủ nhân người Pháp tên David , được xây dựng từ năm 1938 .Sauk hi về Pháp , vị chủ nhân người Pháp đã bán lại khu biệt thự này cho ông Nghiệp Đoàn , bố của Minh Tâm .

Từ năm 1990 , khu biệt thự này được dung để khai thác du lịch . Vườn hoa Minh Tâm có nhiều loại hoa quý đẹp khoe sắc như Cẩm Tú Cầu , Cẩm Chướng , Mimosa lá bạc , hoa chống muỗi đa sắc ( pelargonium ) , Phù Dung , hoa xác pháo có màu đỏ rực , hoa hồng với nhiều màu sắc lai tạo … Đặc biệt , trong khu vực kinh doanh hoa của nhiều chủ nhân đang trưng bày nơi đây , có nhiều loài hoa quý tộc được giới thiệu để phục vụ du khách mang về trồng ở địa phương . Giữa khu vựờnhoa là khách sạn Minh Tâm được cải tạolại từ ngôi biệt thự cũ để phục vụ du khách.

Du khách yêu thiên nhiên đến du lịch Đà Lạt thường lưu trú nơi đây để được mãn nhãn ngắm các loài hoa quý trong vườn ,vừa có thể thả hồn mình hòa với rừng thôngxanh trải dài xa tít dưới thung lũng .

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Rượu cần Nam Tây Nguyên

Nhiều khách du lịch Đà Lạt hay Tây Nguyên cũng đã thưởng thức rượu cần Tây Nguyên, nhưng ít ai biết đến thứ “nguyên liệu chính hiệu” để làm nên nó: Men rừng! Thứ “men” mà từ lâu như sợi chỉ dệt nên những tấm ui (phụ nữ thường làm xà rông) - tự nó lưu truyền đời này qua đời khác, gắn chặt với đời sống cộng đồng bà con bản địa và làm nên một loại “Thức uống tâm linh” của bản làng - rượu cần.


Để làm được một choé rượu cần phải trải qua rất nhiều công đoạn. Các loại gạo, nếp, sắn…nói chung ngũ cốc có tinh bột đều làm được rượu. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là tạo ra mùi hương. Để tạo nên mùi hương đặc trưng cho rượu cần, nhiều người sử dụng gần 30 vị thuốc như sa nhân, đinh hương, quế, thảo khấu… tạo ra hương vị cay, đắng, ngọt, thơm… Nhưng, đó vẫn mới chỉ là loại rượu cần thương phẩm. Muốn có một ché rượu cần ngon đúng nghĩa, theo đồng bào dân tộc Cil ở thôn Măngline (Đà Lạt) thì cần phải có loại men rừng. Nhưng loại men này không mấy người làm được. Vào mùa xuân, khi cây atisô rừng bắt đầu ra hoa và cho nhựa…, những người làm rượu cần vào tận rừng sâu để tìm rễ và bông của loại cây này (đây là hương liệu chính của rượu cần) mang về phơi khô và giã thành bột để làm men (đồng bào K’Ho gọi là “dòng”). Anh Păng Til Mút cho biết: “Đây là loại men có tính độc mà đồng bào còn gọïi là “pơ ngai”. Loại men này có thể gây chết người ở liều lượng cao. Tuy nhiên, ở liều lượng nhỏ, nó chỉ làm cho tâm hồn ngất ngây mà thôi. Kế đến lấy bột men trộn đều với cơm gạo, nếp hoặc bắp..., sau đó giã thành bột và tạo thành những “vú men” cỡ như cái chén đem hong trên bếp lửa và sau một thời gian ngắn sẽ hoá thành men có màu trắng đục. Đây mới chính là loại men rừng dùng để làm rượu cần đúng nghĩa.

Điều đặc biệt, việc làm rượu cần còn phụ thuộc rất nhiều vào những chiếc choé. Choé càng cổ rượu càng ngon vì ruột những chiếc choé cổ không tráng men dễ dàng để cho men rượu bám và lên men. Theo đồng bào dân tộc bản địa ở đây, để cho “ra lò” một choé rượu cần ngất ngây men rừng như vậy ít nhất phải mất 6 tháng. Khi đó, trị giá của ché rượu cần trở thành “vô giá”… Đó cũng chính là niềm vinh hạnh của người được mời thưởng thức những ché rượu này, nhưng nghịch lý của loại rượu chính hiệu này lại không “sống” được bên cạnh những ché rượu cần thương phẩm.

Thức uống tâm linh

Không phải ngẫu nhiên mà rượu cần trở thành một thức uống tâm linh của đồng bào dân tộc ít người ở vùng Nam Tây Nguyên. Bởi rượu cần được làm từ men của rừng, uống ở rừng, “tắm” trong không gian văn hoá của lễ hội của rừng… Rượu chỉ dùng trong một không gian văn hoá tâm linh, văn hoá lễ hội xung quanh bếp lửa, nhà dài…với những nghi thức mời rượu huyền ảo trong tiếng cồng, chiêng mênh mang, vang vọng ở chốn đại ngàn.

Mặc dù chưa có một tài liệu nào chính thức nói về nguồn gốc ra đời của rượu cần, nhưng theo các già làng cho biết, thuở xưa xuất phát từ việc cúng bái thần linh, một số người dùng “men” được chế biến từ cây rừng trộn với cơm hèm, ủ vào trong những quả bầu khô để dâng cho thần linh. Sau lễ, mọi người đập bầu và chia nhau phần cơm để “mút” (từ của dân tộc bản địa Đà Lạt), và cụ Nhím (cách gọi trân trọng của đồng bào ở đây dành cho con vật thiêng: Nhím rừng) thấy được mới bày cho cách ủ rượu cần, và cách dùng cần để uống, cũng vì vậy mà người dân tộc có thói quen trước khi uống rượu cần đều mời thần linh và cụ Nhím uống trước. Hiện nay, một số bôn làng ở Di Linh, Đơn Dương vẫn còn giữ thói quen mỗi khi uống rượu cần thường buộc một sợi lông Nhím vào cần để ghi nhớ công lao của Cụ Nhím.

Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Nam Tây Nguyên này xem rượu cần là “thức uống tâm linh”, bởi nó vừa có thần thánh, lại vừa có con người hiện hữu bên ché rượu. Cái đẹp của rượu cần chính là ở nghi thức mời rượu, mỗi tộc người có một cách mời rượu khác nhau, từ đó góp phần tạo nên văn hoá cho rượu cần.
Cách thưởng thức rượu

Không ít người đã từng nếm thử rượu cần, nhưng để lĩnh hội hết cái hồn, cái men nồng ngất ngây của rượu cần thì quả là không dễ.  Đồng bào dân tộc ít người ở vùng Nam Tây Nguyên thường hay có cách đãi khách quý bằng rượu cần. Ché rượu cần được mang ra để ở giữa nhà sàn, chủ nhà cầm cần bằng hai tay hơi nâng lên như tế lễ để đưa cần cho người được tiếp đãi cắm cần vào ché. Nếu khách đông, mỗi người sẽ chuyền cần cho nhau bằng hai tay từ phải qua trái, nếu cầm một tay phải cầm tay phải vì đối với người đồng bào dân tộc thiểu số cầm tay trái là khinh họ. Người chủ nhà phải uống trước một ly để chứng tỏ rượu không có độc tiếp đến mới mời khách. Thường thì khi được mời, khách phải uống cạn ống nước đầu tiên, theo truyền thống, uống tình cảm là xoay vòng; uống thân thiện, tri kỷ thì cùng uống, còn uống hoà giải - phải có kèm theo con gà, hoặc vòng cườm để làm chứng, người chịu lỗi uống trước, gà sẽ được làm thịt và lấy giò để cho già làng xem người có lỗi thành thật hay không. Riêng trong lễ đâm trâu, thì mọi người thi nhau uống, mỗi làng sẽ đại diện một người, ai uống nhiều hơn thì làng đó thắng.

Đồi chè Bảo Lộc

Không lạnh như Đà lạt, không nóng như Sài Gòn, Bảo Lộc dường như quanh năm mát mẻ. Một màu xanh bao phủ với núi đồi chập chùng, nhưng ấn tượng nhất vẫn là những đồi trà xanh tạo nét gợi cảm.


Khách du lịch đi Đà Lạt đa số đều dừng chân ở Bảo Lộc - Một thị trấn êm đềm xinh đẹp nằm cách Đà Lạt 120 km. Và ai ai cũng mang về làm quà cho người thân đặc sản nổi tiếng của miền cao nguyên trù phú này - Trà Bảo Lộc. Đến Bảo Lộc, chỗ nào bạn cũng nhìn thấy trà: những vườn trà xanh bát ngát chạy tít tắp phía chân trời, trà bao bọc xung quanh nhà ở, trà phơi trong sân, cho đến trà trong những bao màu rực rở ở tiệm bán trà. Đến bất kỳ nhà ai ở Bảo Lộc, bạn cũng được người ta tiếp bằng thứ nước mang vị chát mát ngọt đó - nước trà.


Thời tiết ở đây mát mẻ quanh năm. Lúc nóng nhất, Bảo Lộc chưa tới 28 độ C; lúc lạnh nhất khoảng 17 độ C. Hơn nửa năm là những ngày mưa. Đó là những điều kiện tốt để trồng cây công nghiệp này và hình thành thương hiệu trà nổi tiếng trong nước và thế giới.


Khi phát hiện và khai phá cao nguyên Lâm Đồng, người Pháp đã mang giống trà sang trồng. Đến nay, cây trà này đã bén duyên với thành phố cao nguyên cũng hơn 80 năm. Từ những đồn điền trà bạt ngàn của người Pháp, đến nay những đồi trà thuộc về tay người dân. Trong đó, có nhiều người từng là công nhân của những đồn điền, sở trà trước kia. Để ngày nay, khi đi trên đường Trần Phú của thành phố này, khách không khỏi ngạc nhiên trước hàng chục thương hiệu trà nằm san sát. Khách mỗi lần qua đây đều phải ghé lại để thưởng thức ấm trà nóng, thơm lừng…


Trà ở đây chiếm khoảng 1/4 diện tích trà cả nước với nhiều chủng loại. Nơi đây, tập hợp nhiều người dân ở nhiều vùng khác nhau nên cách ướp trà, chế biến trà vừa mang hương vị của các vùng miền vừa mang nét đặc trưng bản địa. Tại đây, khách không bị choáng ngợp bởi không gian đô thị với những khối bê tông kiến trúc. Ngược lại, không gian thành phố rất hài hòa với thiên nhiên. 


Thưởng thức một ly trà thơm, có ai biết được bao vất vả khó nhọc của người dân Bảo Lộc?
Phá rừng, làm đất, dâm hạt và chăm chút cho cây trà lớn lên đã là một quá trình khó nhọc. Những đọt trà non hái mang về được luộc hoặc xào cho chín, sau đó đem vò cho xoăn lại, kế tiếp là xấy trên bếp than hồng đến khi nào trà khô và bốc mùi thơm mát là được. Trà chế biến đến đây gọi là trà mộc. Một số người thích uống trà này hơn vì nó còn mang đầy đủ hương vị của trà. Muốn thơm ngon hơn, người ta ướp thêm các vị thuốc khác như quế hương, cam.


Uống trà Bảo Lộc thật thú vị và những nương trà Bảo Lộc nhìn cũng thật mát mắt. Đến Bảo Lộc, từ quốc lộ 20 đi sâu vào trong, bạn sẽ thấy mênh mông bát ngát những trà là trà. Giữa những đồi trà, thỉnh thoảng bạn lại gặp những con suối chảy róc rách hoặc những thác nước tung bọt trắng xóa. Đó đây thấp thoáng những chiếc nón trắng của các cô gái Bảo Lộc xinh đẹp đang thoăn thoắt hái trà.


Trà Bảo Lộc được chuyển đi khắp các tỉnh, có những vùng nước lợ mà người ta không thể uống nước được nếu không có trà. Bất kỳ một quán giải khát, quán ăn nào cũng không thể thiếu nước trà. Đây là thứ nước giải khát lành mạnh cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, ai cũng có thể thưởng thức hương vị thơm ngon, đậm đà của nước trà.


Đi dọc theo các con phố, con đường, khách dễ dàng nhìn thấy những cụm dã quỳ mọc tự nhiên khoe mình trong nắng mới. Mùa này, dã quỳ nở vàng rực. Xa xa là những đồi trà trông như những chậu bonsai khổng lồ được tỉa tót. Đến đây vào dịp hái trà, những ngọn đồi xanh trông như một bức tranh khổng lồ. Hàng chục người hái trà dàn hàng ngang, tay thoăn thoắt hái những lá trà… đi gần hết ngọn đồi. Du khách, nhất là những người ưa nhiếp ảnh, không thể bỏ qua những khoảnh khắc này để ghi lại những tấm hình đẹp.


Xung quanh thành phố này còn nhiều điểm tham quan hấp dẫn, đậm chất hoang dã của núi rừng. Cách thành phố khoảng 20 cây số là khu du lịch Đambri với ngọn thác cùng tên cao hơn 60m nằm trong rừng già. Tại đây, có nhiều dịch vụ du lịch văn hóa hấp dẫn du khách. Khi phố trà đông đúc, khách muốn trở về với thiên nhiên, xin mời đến đây. Ngoài ra, còn phải kể đến khu du lịch dã ngoại núi rừng Mađagui dưới chân đèo Bảo Lộc. Hoặc gần đó là Vườn quốc gia Nam Cát Tiên hoang dã.


Thông thường, khi đi du lịch Đà Lạt, Bảo Lộc chỉ là điểm dừng chân thoáng qua. Bao nhiêu người vẫn tiếc nuối vì không ở lại đây để buổi sáng trong sương mờ được bước đi trên những đồi trà và thưởng lãm nét văn hóa trà bản địa.